Dịch thuật: Lê Khương, Minh Phạm
(SCI Blog) – Dụng cụ tránh thai trên bệnh nhân ung thư cần được xem xét chỉ định dựa trên nhiều yếu tố khác nhau. Cùng nhau tìm hiểu những yếu tố đó thông qua nhiều nghiên cứu hiện nay và các ý kiến chuyên gia về vấn đề trên với bài viết sau đây.
Sự lựa chọn của bệnh nhân, hiệu quả tránh thai và đủ điều kiện y tế đều cần được xem xét khi tư vấn tránh thai cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị ung thư hoặc ung thư đang trong tình trạng thuyên giảm. Dựa trên những nguyên tắc này, phụ nữ có thể giảm thiểu nguy cơ mang thai ngoài ý muốn, tiếp tục được chỉ định liệu pháp bổ trợ hoặc phòng ngừa cần thiết và duy trì mức độ hài lòng với liệu pháp tránh thai.

(Ảnh: Sưu tầm)
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) đã công bố tiêu chí đủ điều kiện y tế (MEC) để hỗ trợ các nhà cung cấp trong việc lựa chọn biện pháp tránh thai phù hợp về mặt y tế cho phụ nữ có nhiều tình trạng sức khỏe khác nhau, bao gồm cả ung thư (MMWR khuyến nghị. Rep. 2010; 59 (RR-4): 1-6).
Một số loại biện pháp tránh thai nội tiết tố bị chống chỉ định trong các loại ung thư cụ thể.
Điều quan trọng cần lưu ý là dụng cụ tử cung bằng đồng (ParaGard) rất hiệu quả (với tỷ lệ thất bại trong năm đầu là 0,8%) và không có chống chỉ định liên quan đến ung thư. Bất kỳ biện pháp tránh thai nào với estrogen hoặc progesterone đều chống chỉ định tương đối trong các bệnh ung thư qua liên quan nội tiết tố, bao gồm ung thư vú, nội mạc tử cung hoặc các bệnh ung thư khác có thụ thể dương tính estrogen (ER) hoặc progesterone (PR). Tránh thai nội tiết kết hợp chống chỉ định ngay cả trong các bệnh ung thư vú âm tính ER / PR trong 5 năm đầu, sau đó chúng là CDC MEC loại 3 (nguy cơ có thể vượt quá lợi ích).
Huyết khối tĩnh mạch (VTE) là một bệnh lý quan trọng liên quan đến ung thư. Ung thư hoạt động làm tăng nguy cơ mắc VTE lên gấp bốn lần, tăng thêm nếu bệnh nhân đang điều trị hóa trị (Arch. Intern. Med. 2000; 160: 809-15). Estrogen được biết là làm tăng nguy cơ huyết khối, và do đó nó bị chống chỉ định ở bất kỳ bệnh nhân nào có nguy cơ mắc VTE hoặc có tiền sử VTE. Hiện nay có một số tranh luận về việc sử dụng các biện pháp tránh thai chỉ có progestin ở những người có nguy cơ (hoặc có tiền sử) VTE. Bằng chứng tốt nhất và hướng dẫn CDC chỉ ra rằng các phương pháp tránh thai chỉ có progestin có thể được sử dụng ở bệnh nhân ung thư hoặc có tiền sử VTE. Điều quan trọng là không có mối liên hệ nào được biết đến giữa biện pháp tránh thai khẩn cấp và VTE (Obstet. Gynecol. 2010; 115: 1100-9).
Các vấn đề cụ thể về ung thư khác có thể ảnh hưởng đến biện pháp tránh thai bao gồm giảm tiểu cầu, tác dụng phụ đường tiêu hóa và tương tác thuốc. Giảm tiểu cầu có thể làm trầm trọng hơn hoặc gây chảy máu tử cung bất thường. Do đó, ức chế kinh nguyệt bằng biện pháp tránh thai nội tiết kết hợp liên tục hoặc phương pháp chỉ có progestin, bao gồm đặt vòng tránh thai nội tiết và cấy ghép, có thể là phương pháp lý tưởng. Liên quan đến tác dụng phụ đường tiêu hóa, tình trạng nôn ói và viêm niêm mạc do ung thư và điều trị có thể làm giảm hấp thu thuốc tránh thai, vì vậy trong tình huống này ta nên xem xét lựa chọn thay thế khác. Thuốc kháng axit, thuốc giảm đau, thuốc chống nấm, thuốc chống co giật và thuốc kháng retrovirus đều được biết là ảnh hưởng đến chuyển hóa ở gan và có thể ảnh hưởng đến hiệu quả tránh thai đường uống.
Với khả năng ức chế miễn dịch do hóa trị liệu, hiện nay có một mối lo ngại trên lý thuyết về nguy cơ nhiễm trùng liên quan đến dụng cụ cấy ghép vào cơ thể như đặt vòng tránh thai. Bằng chứng tốt nhất cho đến nay, tuy nhiên, không cho thấy sự gia tăng nguy cơ, ngay cả trên những bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính. Hóa trị cũng làm gia tăng loãng xương. Các bác sĩ phụ khoa nên thận trọng với depot medroxyprogesterone acetate (DMPA), mặc dù không có chống chỉ định tuyệt đối, đặc biệt là trong thời gian sử dụng ngắn hơn.
Nhiều bệnh nhân ung thư vú được chỉ định dùng tamoxifen như một liệu pháp bổ trợ, nhưng tác dụng chống ung thư của tamoxifen có thể không ngăn ngừa mang thai (Cancer Imaging 2008; 8: 135-45). Do đó, điều quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản dùng tamoxifen là được tránh thai hiệu quả. Các chuyên gia vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về việc sử dụng hệ thống tử cung levonorgestrel (vòng tránh thai tiết levonorgestrel, Mirena hoặc Skyla) trong bệnh cảnh ung thư vú.
Một mặt, bệnh nhân dùng tamoxifen dài hạn có thể được hưởng lợi từ tác dụng bảo vệ nội mạc tử cung của vòng tránh thai tiết levonorgestrel (Lancet 2000; 356: 1711-7). Không chắc chắn nếu phụ nữ có vòng tránh thai tiết levonorgestrel tại chỗ tại thời điểm chẩn đoán ung thư vú nên loại bỏ thiết bị. Đặt vòng tránh thai tiết levonorgestrel là chống chỉ định trong tất cả các trường hợp ung thư hoạt động, nhưng nếu bệnh nhân không có bằng chứng của ung thư trong hơn 5 năm, CDC liệt kê vòng tránh thai tiết levonorgestrel vào loại 3. Các chuyên gia đồng thuận rằng cần có thêm nghiên cứu với vòng tránh thai tiết levonorgestrel ở phụ nữ bị ung thư vú và việc sử dụng vòng tránh thai tiết levonorgestrel trong dân số này nên được cân nhắc cẩn thận về các rủi ro và lợi ích (Fertil. Steril. 2008; 90: 17-22; Contraception 2012; 86: 191-8 ).
Các bác sĩ nên xem xét nhu cầu tránh thai của những phụ nữ đang tích cực điều trị ung thư hoặc gần đây đã được điều trị ung thư, vì 17% ung thư nữ xảy ra ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Dụng cụ tử cung bằng đồng là một lựa chọn có hiệu quả cao với rất ít chống chỉ định. Ở những bệnh nhân có tiền sử ung thư không liên quan đến nội tiết tố (và không có tiền sử VTE), tất cả các lựa chọn tránh thai có thể được xem xét, bao gồm cả những loại có chứa estrogen. Nên tránh chỉ định các biện pháp tránh thai có chứa estrogen ở những người có tiền sử ung thư liên quan đến nội tiết tố. Những phụ nữ không quen thuộc với nhiều lựa chọn nên cân nhắc việc giới thiệu sớm đến bác sĩ chuyên khoa và các chuyên gia kế hoạch hóa gia đình nên xem xét điều kiện y tế trong khi tư vấn cho phụ nữ về các lựa chọn tránh thai hiệu quả nhất.
Mời bạn xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
Cập nhật ngày 21/11/2020
Nguồn tham khảo: Selecting the right contraception method for cancer patients
Bản quyền nội dung thuộc về Cancer Research UK và quyền dịch thuật cấp cho Prof. Dr. Thích Minh Tâm